Điểm đ Khoản 2 Điều 6 của Nghị định 168 có hiệu lực từ 01/1/2025 (về Xử phạt, trừ điểm giấy phép lái xe của người điều khiển xe ô tô, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ) quy định:
Phạt tiền từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:
– Dừng xe không sát theo lề đường, vỉa hè phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, vỉa hè quá 0,25 mét; dừng xe trên đường dành riêng cho xe buýt; dừng xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; rời vị trí lái, tắt máy khi dừng xe (trừ trường hợp rời khỏi vị trí lái để đóng, mở cửa xe, xếp dỡ hàng hóa, kiểm tra kỹ thuật xe) hoặc rời vị trí lái khi dừng xe nhưng không sử dụng phanh đỗ xe (hoặc thực hiện biện pháp an toàn khác); dừng xe, đỗ xe không đúng vị trí quy định ở những đoạn có bố trí nơi dừng xe, đỗ xe; dừng xe, đỗ xe trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường; dừng xe nơi có biển “Cấm dừng xe và đỗ xe”, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm đ khoản 4, điểm c khoản 7 Điều này.
Từ 1/2025: Bỏ xe khi vi phạm có thể bị phạt 12 triệu và tính lãi tiền phạt
Theo Nghị định 168, nhiều lỗi vi phạm giao thông tăng mạnh mức xử phạt từ ngày 1/1/2025 trong đó hành vi bỏ lại xe khi vi phạm cũng sẽ bị xử phạt nặng.
Bỏ xe khi vi phạm có thể bị phạt thêm 6 triệu và tính lãi tiền phạt
Chia sẻ trên VOV, Luật sư Trần Tuấn Anh, Giám đốc công ty luật Minh Bạch cho biết: “Khi bị CSGT phát hiện lỗi vi phạm và đề nghị kiểm tra mà anh không chấp hành, anh bỏ xe thì ở đây bị xem là hành vi chống đối hoặc không chấp hành hiệu lệnh hướng dẫn hay yêu cầu kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ. Người thực hiện hành vi này có thể bị phạt tiền từ 4 triệu đến 6 triệu đồng với cá nhân và từ 8 triệu đến 12 triệu với tổ chức”.
Bên cạnh đó, trường hợp người bị xử lý vi phạm giao thông chưa có tiền nộp phạt thì sẽ bị tính lãi trên số tiền bị xử phạt. Đồng thời bị cho rằng chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định hành chính của nhà nước. Do vậy, khi đi thực hiện một giao dịch nào đó về lĩnh vực hành chính họ sẽ bị hạn chế quyền của mình.
Đối với tình huống trên, trước đó Bộ Công an cho biết, theo quy định hiện hành, thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 1 năm, kể từ ngày ra quyết định.
Trường hợp hết thời hạn trên mà cá nhân vẫn không thực hiện nghĩa vụ của mình thì có thể bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt bằng một số hình thức như: Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của người vi phạm. Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá. Thu tiền, tài sản khác của người bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do người khác đang giữ, trong trường hợp người vi phạm cố tình tẩu tán tài sản.
Ngoài ra, theo Thông tư 24 năm 2023 của Bộ Công an, người vi phạm trật tự, an toàn giao thông mà không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thì chưa được giải quyết đăng ký xe. Sau khi chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm, mới được đăng ký xe theo quy định.
Người bỏ lại xe khi vi phạm nếu quá thời hạn sẽ bị tính lãi. Ảnh minh họa
Vi phạm giao thông không nộp phạt mà bỏ lại xe của mình sẽ bị xử lý theo quy định này
Theo Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2020) về thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính như sau:
– Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
– Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.
Như vậy, nếu người vi phạm trốn tránh không nộp phạt mà bỏ xe lại thì thời hiệu thi hành quyết định xử phạt tính từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.
Ngoài ra, tại Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2020) về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính có quy định:
– Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
+ Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt theo quy định tại Điều 73 của Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2020);
+ Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện hoàn trả kinh phí cho cơ quan đã thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại khoản 5 Điều 85 của Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2020).”.
– Các biện pháp cưỡng chế bao gồm:
+ Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm;
+ Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá;
+ Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản.
+ Buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2020).
– Chính phủ quy định cụ thể về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Theo quy định trên, thì người vi phạm nếu không chấp nhận quyết định xử phạt thì có thể bị cưỡng chế bằng các biện pháp đã nêu ở quy định trên.